HomeCon NgườiCao Bá Quát - Vị anh hùng làm rạng danh non sông

Cao Bá Quát – Vị anh hùng làm rạng danh non sông

Published on

spot_img

Cao Bá Quát – Vị anh hùng làm rạng danh non sông

Họ và tên: Cao Bá Quát

Năm sinh – Năm mất: 1809 – 1855

Quê quán: Làng Phú Thị, Gia Lâm, Hà Nội

Thời kỳ hoạt động: thời nhà Nguyễn

Danh hiệu: Anh hùng dân tộc

Cái tên Cao Bá Quát không chỉ gợi lên hình ảnh một nhà thơ tài hoa bậc nhất lịch sử văn học Việt Nam mà còn là biểu tượng sừng sững của khí phách kiên cường, lòng yêu nước nồng nàn và tinh thần bất khuất trước cường quyền, sự tha hóa của xã hội phong kiến. Ông, một con người của thời đại đầy biến động, đã dùng ngòi bút sắc bén và hành động dũng cảm của mình để viết nên một trang sử hào hùng, rạng danh non sông đất Việt.

Tuổi thơ và tài năng xuất chúng

Cao Bá Quát sinh ra trong một gia đình có truyền thống khoa bảng tại làng Phú Thị, huyện Gia Lâm, phủ Thuận An, trấn Kinh Bắc (nay thuộc xã Quyết Chiến, huyện Gia Lâm, Hà Nội). Ngay từ thuở thiếu thời, ông đã bộc lộ tư chất thông minh khác người, khả năng tiếp thu kiến thức nhanh nhạy và trí nhớ siêu phàm. Truyền thuyết kể rằng, khi còn nhỏ, ông đã có thể thuộc lòng hàng ngàn câu thơ, câu đối, và có thể sáng tác ngay tức thì những vần thơ đầy ý tứ, sâu sắc. Cha ông, Cao Bá Đạt, tuy không đỗ đạt cao nhưng là một người thầy nghiêm khắc và giàu lòng yêu thương, đã tận tâm truyền dạy cho con cái những kiến thức nền tảng về Hán học, đạo đức Nho giáo. Mẹ ông, bà Nguyễn Thị Đào, một người phụ nữ tần tảo, đức độ, cũng đã góp phần hun đúc nên nhân cách và tâm hồn của Cao Bá Quát.

Trong môi trường giáo dục gia đình và làng quê giàu truyền thống văn hóa, tài năng của Cao Bá Quát nhanh chóng nở rộ. Ông nổi tiếng khắp vùng với biệt danh “thần đồng thơ ca”, “thần siêu thánh hóa” với khả năng viết chữ đẹp như rồng bay phượng múa, và đặc biệt là tài đối đáp, ứng tác thơ phú không ai sánh kịp. Những câu chuyện về Cao Bá Quát sửa lỗi thơ của các bậc tiền bối, hay ứng đối tài tình trước những câu đố hóc búa của quan lại đã trở thành giai thoại được truyền tụng rộng rãi, minh chứng cho một tài năng hiếm có khó tìm. Ông không chỉ học rộng hiểu sâu kinh sử mà còn có một tâm hồn phóng khoáng, một trái tim nhạy cảm với vẻ đẹp của cuộc sống và nỗi khổ của con người.

Con đường khoa cử gian truân và tấm lòng ưu dân ái quốc

Mặc dù có tài năng kiệt xuất, con đường khoa cử của Cao Bá Quát lại vô cùng gian truân. Thời bấy giờ, triều đình nhà Nguyễn đặt nặng lối học từ chương, khuôn phép, đòi hỏi thí sinh phải theo đúng những chuẩn mực cứng nhắc. Với cá tính mạnh mẽ, tư tưởng độc lập và văn phong phóng khoáng, khác lạ, Cao Bá Quát thường không được giới giám khảo ưa thích. Ông đã trải qua nhiều kỳ thi Hương, thi Hội đầy trắc trở, nhiều lần bị đánh trượt hoặc chỉ đỗ ở những vị trí thấp do những lý do như lỗi chính tả, sai quy cách, hoặc bị cho là “văn chương ngông cuồng”. Có lần, ông còn bị truất quyền dự thi vì tự ý sửa chữa một bài thi của người khác để giúp họ, thể hiện sự nghĩa hiệp nhưng cũng đi ngược lại quy chế.

Cao Bá Quát

Mãi đến năm Kỷ Hợi (1839), Cao Bá Quát mới đỗ Cử nhân, và đến năm Nhâm Dần (1842) đỗ Phó bảng. Sau khi đỗ đạt, ông được bổ nhiệm làm Huấn đạo ở Quốc Oai, rồi Tri huyện Thanh Oai, sau đó làm Chủ sự bộ Lễ. Tuy nhiên, với bản tính cương trực, ghét thói nịnh bợ, tham lam, ông thường xuyên xung đột với các quan lại khác. Ông không ngần ngại vạch trần những sai trái, bất công mà mình chứng kiến, không chịu khuất phục trước quyền uy, khiến con đường công danh của ông gặp nhiều gập ghẽn. Cao Bá Quát còn bị cách chức, bị giam cầm một thời gian vì một vụ án liên quan đến việc sửa chữa các văn bản trong kho của triều đình. Những biến cố này không làm ông nản lòng mà càng hun đúc thêm tinh thần yêu nước, thương dân. Qua ngòi bút của mình, ông đã phơi bày những thói hư tật xấu của xã hội, sự thối nát của quan trường, và nỗi thống khổ của người dân. Những bài thơ của ông không chỉ là những tác phẩm văn chương mà còn là tiếng lòng của một người ưu thời mẫn thế, luôn trăn trở về vận mệnh quốc gia, dân tộc.

Khí phách kiên cường và cuộc khởi nghĩa Mỹ Lương

Sống trong một thời đại mà triều đình nhà Nguyễn ngày càng suy yếu, xã hội loạn lạc, người dân lầm than dưới ách áp bức bóc lột, Cao Bá Quát không thể đứng yên. Ông chứng kiến sự tha hóa của tầng lớp quan lại, sự bất công tràn lan, và nỗi thống khổ cùng cực của người dân lao động. Nỗi bức xúc tích tụ lâu ngày đã biến thành hành động. Với bản lĩnh và khí phách kiên cường, ông đã quyết định từ bỏ con đường quan lộ, dứt bỏ cuộc sống cá nhân để dấn thân vào con đường đấu tranh vũ trang, nhằm lật đổ triều đình phong kiến thối nát, mang lại cuộc sống tốt đẹp hơn cho nhân dân.

Vào năm Ất Mão (1855), Cao Bá Quát đã đứng lên lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Mỹ Lương (còn gọi là Khởi nghĩa Lê Duy Phụng) ở vùng Sơn Tây. Ông cùng với các cộng sự chiêu mộ nghĩa quân, tổ chức lực lượng và phất cao cờ khởi nghĩa, kêu gọi nhân dân đứng lên chống lại triều đình Nguyễn. Mặc dù ban đầu cuộc khởi nghĩa đã giành được một số thắng lợi nhất định, gây chấn động cả vùng Bắc Kỳ, nhưng do tương quan lực lượng quá chênh lệch và thiếu sự phối hợp rộng rãi, nghĩa quân đã gặp phải nhiều khó khăn. Cuối cùng, vào tháng 11 năm Ất Mão (1855), trong một trận chiến ác liệt tại vùng Cao Bằng, Cao Bá Quát đã anh dũng hy sinh. Cái chết của ông đã để lại tiếc nuối lớn cho những người yêu nước và ngưỡng mộ tài năng, khí phách của ông.

Di sản văn chương và tầm vóc một nhân cách

Mặc dù cuộc đời Cao Bá Quát kết thúc bi tráng, nhưng di sản văn chương và tầm vóc nhân cách của ông vẫn còn sống mãi với thời gian. Ông đã để lại một khối lượng tác phẩm đồ sộ, bao gồm thơ, phú, văn xuôi, câu đối, và các bài phê bình. Tuy nhiều tác phẩm đã bị thất lạc do sự đàn áp của triều đình Nguyễn, những gì còn lại vẫn đủ để khẳng định vị trí của ông là một trong những nhà thơ lớn nhất của văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ 19. Thơ Cao Bá Quát mang đậm phong cách riêng, vừa lãng mạn, hào sảng, vừa chứa đựng nỗi buồn u hoài, day dứt về thời cuộc. Ông là người tiên phong trong việc sử dụng hình ảnh, ngôn ngữ mới mẻ, phá cách, thoát ly khỏi những khuôn sáo cũ kỹ.

Ngoài ra, ông còn nổi tiếng với tài thư pháp “nhất tự thiên kim” (một chữ ngàn vàng), mà đến nay vẫn còn được nhiều người nhắc đến và ngưỡng mộ. Nhưng hơn cả tài năng văn chương hay thư pháp, Cao Bá Quát còn là biểu tượng của một nhân cách cao đẹp: chính trực, liêm khiết, không khuất phục trước cường quyền, luôn đau đáu vì vận mệnh đất nước và nhân dân. Ông là tấm gương sáng về lòng dũng cảm, sự hy sinh quên mình vì nghĩa lớn. Tinh thần của Cao Bá Quát đã truyền cảm hứng cho nhiều thế hệ người Việt Nam về sau, trở thành nguồn động lực cho những cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do và công bằng xã hội. Những bài thơ của ông không chỉ là viên ngọc quý của văn học mà còn là lời hiệu triệu, là tiếng nói của lương tri, của khát vọng tự do và công lý, một con người dẫu trăm năm đã trôi qua, hình bóng và tiếng thơ ông vẫn còn vang vọng, nhắc nhở chúng ta về những giá trị vĩnh cửu của một vị anh hùng thật sự đã làm rạng danh cho non sông này.

Cao Bá Quát

Latest articles

An sinh cho người cao tuổi và dân số già,Chính sách chăm sóc người cao tuổi toàn diện

An sinh cho người cao tuổi và dân số già, Chính sách chăm sóc...

Đào tạo và thu hút nhân lực công nghệ cao,Phát triển nhân lực số phục vụ chuyển đổi kinh tế

Đào tạo và thu hút nhân lực công nghệ cao, Phát triển nhân lực...

Nâng cấp hệ thống giáo dục nghề nghiệp,Đào tạo nghề gắn với nhu cầu thị trường

Nâng cấp hệ thống giáo dục nghề nghiệp, Đào tạo nghề gắn với nhu...

Phát triển kinh tế vùng kinh tế trọng điểm,Thúc đẩy các vùng kinh tế động lực phát triển nhanh

Phát triển kinh tế vùng kinh tế trọng điểm, Thúc đẩy các vùng kinh...

More like this

An sinh cho người cao tuổi và dân số già,Chính sách chăm sóc người cao tuổi toàn diện

An sinh cho người cao tuổi và dân số già, Chính sách chăm sóc...

Đào tạo và thu hút nhân lực công nghệ cao,Phát triển nhân lực số phục vụ chuyển đổi kinh tế

Đào tạo và thu hút nhân lực công nghệ cao, Phát triển nhân lực...

Nâng cấp hệ thống giáo dục nghề nghiệp,Đào tạo nghề gắn với nhu cầu thị trường

Nâng cấp hệ thống giáo dục nghề nghiệp, Đào tạo nghề gắn với nhu...